Tạp chí Học viện Tài chính xuất bản
Duyệt Tạp chí Học viện Tài chính xuất bản theo Topic "Ngành Kinh tế"
- Ấn phẩmẢnh hưởng của động cơ tiêu khiển đến quyết định mua hàng ngẫu hứng qua mạng truyền thông xã hội facebook(2023) Nguyễn Minh Hiếu ThS; Nguyễn Trọng Hiếu ThS; Trịnh Thị Ngọc Thúy ThSNghiên cứu này nhằm khám phá vai trò của động cơ tiêu khiển đối với quyết định mua hàng ngẫu hứng qua mạng truyền thông xã hội facebook tại thị trường Việt Nam. Các yếu tố của động cơ tiêu khiển bao gồm (1) sự thư giãn trong mua sắm, (2) sự thích thú trong mua sắm, (3) thực hiện vai trò mua sắm, và (4) tìm kiếm thông tin, xu hướng mới trong mua sắm là những nhân tố tiền đề có tác động đến quyết định mua hàng ngẫu hứng qua mạng xã hội facebook của khách hàng. Nghiên cứu thu thập dữ liệu của 426 khách hàng đã từng mua hàng ngẫu hứng trên mạng xã hội facebook thông qua điều tra trực tuyến. Kết quả xử lý dữ liệu cho thấy sự thích thú và sự thư giãn trong mua sắm là hai nhân tố có mức tác động quan trọng đến quyết định mua hàng ngẫu hứng qua mạng xã hội facebook
- Ấn phẩmẢnh hưởng của động cơ, giá trị cảm nhận đến ý định quay trở lại của khách du lịch tại điểm đến du lịch sáng tạo(Học viện Tài chính, 2024) Trần Thị Tuyết TS; Trần Hùng Đức ThSMục tiêu bài nghiên cứu này nhằm tìm ra các nhân tố ảnh hưởng đến ý định quay trở lại điểm đến du lịch sáng tạo (DLST) thông qua lý thuyết hành vi có kế hoạch. Bài nghiên cứu thu thập 310 mẫu phiếu từ khách du lịch tham quan điểm đến DLST và sử dụng SPSS 22 và AMOS 20 để phân tích dữ liệu. Kết quả cho thấy, thái độ, kiểm soát hành vi nhận thức có tác động tích cực đến ý định quay trở lại điểm đến DLST, và thái độ đóng vai trò trung gian giữa động cơ, giá trị cảm nhận và ý định quay trở lại điểm đến DLST. Từ kết quả này, một số gợi ý/giải pháp được đưa ra nhằm giúp điểm đến DLST thu hút nhiều khách du lịch quay trở lại tham quan.
- Ấn phẩmẢnh hưởng của lãnh đạo đạo đức đến sự hài lòng trong công việc: vai trò trung gian của môi trường đạo đức(Học viện Tài chính, 2024) Nguyễn Thị Hoa Hồng TS; Bùi Phú Khang; Phạm Bá Lộc; Phạm Bảo AnhBài viết này nghiên cứu ảnh hưởng của lãnh đạo đạo đức đến sự hài lòng trong công việc của nhân viên với vai trò trung gian của môi trường đạo đức. Dựa trên dữ liệu thu thập được từ 209 nhân viên làm việc cho các doanh nghiệp và tập đoàn trên địa bàn thành phố Hà Nội, kết quả từ mô hình cấu trúc bình phương nhỏ nhất từng phần (PLS-SEM) cho thấy lãnh đạo đạo đức có mối tương quan cùng chiều với sự hài lòng trong công việc của nhân viên. Bên cạnh đó, nghiên cứu này cũng xác nhận tác động trung gian của môi trường đạo đức đối với mối quan hệ giữa lãnh đạo đạo đức với sự hài lòng trong công việc. Vì vậy, các doanh nghiệp nên áp dụng các nguyên tắc đạo đức đối với lãnh đạo, cải thiện môi trường đạo đức nhằm nâng cao sự hài lòng trong công việc của nhân viên.
- Ấn phẩmBàn về mô hình hoạt động của quỹ đầu tư quốc gia: kinh nghiệm một số nước và khuyến nghị cho Việt Nam(Học viện Tài chính, 2024) Nguyễn Mạnh Cường ThSSau khi hoàn thành nhiệm vụ tiếp nhận và tái cơ cấu các doanh nghiệp, Tổng công ty Đầu tư và Kinh doanh vốn nhà nước (SCIC) sẽ tập trung chuyển đổi trọng tâm hoạt động sang đầu tư. Ngày 18/01/2024, SCIC đã công bố việc triển khai Chiến lược phát triển và Kế hoạch kinh doanh theo Quyết định số 1336/QĐ-TTg ngày 10/11/2023 của Thủ tướng Chính phủ. Giai đoạn 2025-2030, SCIC sẽ tập trung đầu tư vào các ngành mang lại hiệu quả cao và là những ngành lĩnh vực then chốt, trọng yếu mà Nhà nước quan tâm. SCIC sẽ dần chuyển đổi mô hình hoạt động thành tổ chức đầu tư chuyên nghiệp từ sau năm 2025, và trong giai đoạn 2031-2035, SCIC sẽ hoạt động như một công cụ, kênh đầu tư của Nhà nước vào nền kinh tế. Để đạt được các mục tiêu này, SCIC cần tập trung vào các giải pháp chuyển đổi mô hình hoạt động và đổi mới quản trị doanh nghiệp, cùng việc xây dựng hành lang pháp lý cho hoạt động đầu tư kinh doanh vốn. Đề xuất nghiên cứu này tập trung vào lợi ích của mô hình Quỹ đầu tư Quốc gia, phân tích mô hình và hoạt động của SCIC, đồng thời đề xuất định hướng và giải pháp để SCIC chuyển đổi mô hình hoạt động sang mô hình Quỹ đầu tư Quốc gia
- Ấn phẩmBàn về phát triển kinh tế tuần hoàn ở trung quốc và hàm ý cho Việt Nam(2023) Đỗ Hạnh Nguyên ThS; Ngô Thị Hoài Linh TSTrung Quốc bắt đầu quan tâm đến việc phát triển kinh tế tuần hoàn từ đầu thập kỷ 90 của thế kỷ XX. Đến nay, Trung Quốc là một trong những quốc gia đầu tiên đưa ra các chính sách về kinh tế tuần hoàn một cách chính thức ở cấp độ quốc gia. Bài viết đánh giá về những kết quả đạt được trong mô hình phát triển kinh tế tuần hoàn tại Trung Quốc. Đây là những bài học kinh nghiệm quý báu mang lại hàm ý quan trọng cho Việt Nam khi nước ta đang đẩy mạnh việc phát triển kinh tế tuần hoàn nhằm mục tiêu giảm thiểu những tác động tiêu cực đến môi trường trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội.
- Ấn phẩmCác nhân tố ảnh hưởng đến phát triển kinh tế biển gắn với đảm bảo quốc phòng, an ninh ở Việt Nam(2022) Nguyễn Ngọc Khánh ThSViệt Nam là một quốc gia ven biển, có các vùng biển và thềm lục địa rộng lớn, chứa đựng nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú và đa dạng. Cùng với Biển Đông, 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam hiện đang là tiêu điểm của những tranh chấp chủ quyền lãnh thổ hết sức phức tạp và nhạy cảm… Vì vậy, phát triển kinh tế biển gắn với quốc phòng - an ninh (QP-AN) bảo vệ vững chắc chủ quyền biển đảo là điều Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm, chú trọng. Trong khuôn khổ bài viết này, tác giả sẽ phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến phát triển kinh tế biển gắn với đảm bảo quốc phòng, an ninh ở Việt Nam.
- Ấn phẩmCác nhân tố tác động đến cơ cấu nguồn vốn: Nhìn từ góc độ nghành bất động sản Việt Nam(2019) Lê Thị Nhung TS; Bùi Thị Minh Nguyệt ThSThông qua việc sử dụng các phương pháp cơ bản trong hồi quy dữ liệu bảng, nghiên cứu đã lựa chọn phương pháp bình phương nhỏ nhất tổng quát(GLS) nhằm đánh giá tác động của các nhân tố bên trong tới tỷ lệ nợ, tỷ lệ nợ ngắn hạn và tỷ lệ nợ dài hạn của 54 công ty cổ phần bất động sản niêm yết ở Việt nam giai đoạn 2013-2017. Từ đó đưa ra khuyến nghị nhằm hoàn thiệ chính sách huy đôngj vốn trong doanh nghiệp
- Ấn phẩmCác yếu tố ảnh hưởng đến phát triển kinh tế du lịch Việt Nam(2022) Lê Hữu Phương ThS; Vũ Đình ThuậnThSPhát triển kinh tế du lịch (KTDL) không chỉ là tư duy, yêu cầu cấp thiết, luôn được thể hiện trong các Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng mà còn trở thành một trong những nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên, lâu dài của cả hệ thống chính trị. Thời gian qua, KTDL đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng và nổi bật. Tuy nhiên, trước những diễn biến phức tạp của môi trường và xã hội, đặc biệt là đại dịch bệnh Covid-19 đã có những ảnh hưởng lớn đến phát triển KTDL của đất nước. Vì vậy, đòi hỏi phải có góc nhìn khách quan từ các yếu tố tác động, ảnh hưởng đó. Đây là nội dung quan trọng, được nghiên cứu dưới góc độ lý luận và thực tiễn, cần đặt ra và giải quyết hiện nay. Từ đó, đề xuất khuyến nghị một số giải pháp nhằm phát triển du lịch Việt Nam thực sự trở thành ngành kinh tế mũi nhọn trong thời gian tới.
- Ấn phẩmCác yếu tố ảnh hưởng đến thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài để phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh bình dương và một số giải pháp tháo gỡ(2023) Võ Thị Vân Khánh TS; Nguyễn Thị Thu Hiền TS; Lê Quốc AnhBình Dương là tỉnh nằm trong Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, với lợi thế nằm trên các trục lộ giao thông quan trọng của quốc gia và là đầu mối giao lưu giữa các tỉnh Tây Nguyên, miền Trung với Thành phố Hồ Chí Minh - Trung tâm kinh tế lớn của cả nước; có địa hình và nền đất cứng thích hợp cho việc xây dựng các hạ tầng kinh tế kỹ thuật như khu, cụm công nghiệp, khu đô thị, đường giao thông... thuận lợi cho việc thu hút đầu tư, phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, hiện nay Bình Dương đang trong giai đoạn tăng trưởng nhanh nhưng chưa thật bền vững, giá trị gia tăng các ngành kinh tế chủ lực như công nghiệp, dịch vụ chưa cao, còn phụ thuộc nhiều vào các lợi thế so sánh mà trong thời gian tới sẽ không còn như giá nhân công rẻ, tài nguyên thiên nhiên phong phú,…; đời sống văn hóa, xã hội của người dân còn chậm được nâng cao. Để cải thiện các tồn tại, hạn chế kể trên cũng để nước ta thoát khỏi bẫy thu nhập trung bình, cần có những giải pháp nhằm nâng cao giá trị tăng trưởng mà một trong số đó là thông qua việc chọn lọc trong thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Trong nghiên cứu này, tác giả sẽ đi vào tìm hiểu, phân tích thực trạng đầu tư FDI vào tỉnh Bình Dương và đưa ra một số khuyến nghị giải pháp trong thời gian tới.
- Ấn phẩmCác yếu tố tác động đến marketing lãnh thổ nhằm thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào tỉnh Hà Tĩnh(2023) Trần Thu Thủy TS; Nguyễn Thị Hồng Trang ThS; Nguyễn Trúc Quỳnh; Bùi Thị Quỳnh Thơ TSTrong giai đoạn hiện nay đặt ra yêu cầu mỗi địa phương đều phải xây dựng cho mình sản phẩm, quy trình marketing nhằm thu hút được vốn đầu tư đặc biệt là vốn đầu tư nước ngoài để phát triển kinh tế - xã hội địa phương đặc biệt là những địa phương đang nằm trong giai đoạn lấy đầu tư làm động lực phát triển nền kinh tế như địa phương Hà Tĩnh. Nghiên cứu marketing lãnh thổ cũng bao gồm các yếu tố: sản phẩm, giá cả, phân phối xúc tiến hỗn hợp và thêm yếu tố chính quyền và công chúng. Để có thể thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài phát triển kinh tế - xã hội theo định hướng mục tiêu, các địa phương cũng phải vận động như một doanh nghiệp theo định hướng thị trường để xây dựng địa phương thành một “sản phẩm” hấp dẫn và có các biện pháp quảng bá, thu hút đầu tư hiệu quả đối với nhóm khách hàng mục tiêu - là các nhà đầu tư ngoài nước. Thực tế cho thấy địa phương Hà Tĩnh cũng đã thực hiện một số nội dung liên quan đến việc xây dựng hình ảnh, chương trình xúc tiến đầu tư nhằm thu hút đầu tư nước ngoài tuy nhiên chưa thực hiện được việc nghiên cứu và thực hiện quy trình marketing lãnh thổ một cách hệ thống và hiệu quả. Do đó, xây dựng quy trình thực hiện marketing lãnh thổ để tăng cường thu hút vốn đầu tư tại tỉnh đang là nhiệm vụ có ý nghĩa cấp thiết đối với Hà Tĩnh trong giai đoạn hiện nay để thu hút đầu tư phát triển kinh tế xã hội địa phương, đồng thời cần đánh giá trên giác độ của chính các nhà đầu tư. Trên cơ sở khảo sát các nhà đầu tư tại địa phương, bài viết phân tích mô hình nghiên cứu định lượng về các yếu tố tác động đến marketing lãnh thổ nhằm thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI).
- Ấn phẩmCạnh tranh thị trường dòng sản phẩm, giám sát của hội đồng quản trị, tác động đến tăng trưởng bền vững của các doanh nghiệp niêm yết Việt Nam(2023) Trịnh Hiệp Thiện TS; Trần Thị Quỳnh AnhTrong thời đại hội nhập, thị trường Việt Nam đang tăng cường mở cửa nhằm thu hút đầu tư từ các doanh nghiệp nước ngoài, đồng thời tạo sức ép về mặt cạnh tranh cho các doanh nghiệp trong nước. Với mong muốn nâng cao chất lượng thị trường, các thể chế, chính sách đầu tư, quản trị công ty được các cơ quan nhà nước không ngừng cải thiện. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp trong nước cũng đang cải thiện quản trị công ty để mang lại hiệu quả cao nhất trong quá trình hoạt động nhằm nâng cao vị thế cạnh tranh. Xuất phát từ bối cảnh kinh tế, nghiên cứu hướng đến kiểm định ảnh hưởng của cạnh tranh thị trường dòng sản phẩm đến tăng trưởng bền vững của doanh nghiệp thông qua vai trò trung gian giám sát của hội đồng quản trị và vai trò điều tiết của chiến lược cạnh tranh tại các doanh nghiệp niêm yết ở Việt Nam.
- Ấn phẩmChính sách đầu tư của việt nam vào cộng đồng kinh tế Đông Nam Á(2022) Nguyễn Đình Hoàn TSMột trong những trụ cột quan trọng khi thành lập cộng đồng kinh tế Đông Nam Á (AEC) đólàtự do dịch chuyển về vốn (đầu tư) bên cạnh mục tiêu tự do dịch chuyển về thương mại vàtự do dịch chuyển về lao động. Chính vìvậy, các quốc gia trong cộng đồng kinh tế Đông Nam Á đang nỗ lực cải cách chính sách, môi trường đầu tưcủa mình nhằm hỗ trợcác doanh nghiệp trong nước thực hiện đầu tưsang các quốc gia trong cộng đồng AEC. Việc đẩy mạnh đầu tưvào AEC được chính phủvàdoanh nghiệp Việt Nam rất quan tâm. Do đó, các chính sách đầu tưvào AEC cũng được chính phủđổi mới nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp Việt Nam khi đầu tưvào cộng đồng kinh tế Đông Nam Á.
- Ấn phẩmChính sách phát triển kinh tế tuần hoàn của Việt Nam(2023) Nguyễn Mạnh HùngVấn đề ô nhiễm môi trường và cạn kiệt tài nguyên đang ngày càng ảnh hưởng xấu đến cuộc sống con người, đòi hỏi nhiều quốc gia phải chủ động xây dựng và phát triển kinh tế tuần hoàn, trong đó có Việt Nam. Trong những năm gần đây, việc chuyển dịch mô hình phát triển từ kinh tế truyền thống sang kinh tế tuần hoàn đã trở thành xu hướng trên thế giới. Tuy nhiên, để có được sự chuyển dịch như vậy đòi hỏi có các chính sách và giải pháp phù hợp. Bài viết sẽ phân tích, đánh giá thực trạng các chính sách nhằm đưa ra một số kiến nghị xây dựng, hoàn thiện chính sách phát triển kinh tế tuần hoàn của Việt Nam.
- Ấn phẩmChính sách phát triển kinh tế xanh - kinh nghiêm quốc tế và khuyến nghị cho Việt Nam(2019) Hoàng Thùy Linh ThSThuật ngữ kinh tế xanh (KTX), tăng trưởng xanh (TTX) đã và đang được thừa nhận và phát triển, KTX đang trở thành mô hinh phát triển tiên tiến được nhiều nước trên thế giới hướng tới, thậm chí đang lan tỏa thành một trào lưu tốt đẹp để vừa ứng phó với biến đổi khí hậu, vừa phát triển bền vững và tạo ra công bằng xã hội. Phát triển kinh tế xanh là một xu hướng tất yếu, đòi hỏi phải huy dộng được nguồn tài chính đa dạng, phomg phú. Nghiên cứu này sẽ chỉ ra một số nguồn tài chính cho phát triển xanh và những kinh nghiệm quốc tế nhằm phát triển nền kinh tế xanh và từ đó có những khuyến nghị cho Việt Nam
- Ấn phẩmChính sách thu hút đầu tư vào khu công nghệ cao ở Đà Nẵng(2023) ThS Nguyễn Thị HươngTheo Quyết định số 1979/QĐ-TTg ngày 28/10/2010 của Thủ tướng Chính phủ, khu công nghệ cao Đà Nẵng được định hướng trở thành nơi thu hút các tổ chức tài chính, các công ty, tập đoàn đa quốc gia, xuyên quốc gia từ các nước có nền sản xuất CNC và trở thành hạt nhân thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, chuyển dịch cơ cấu kinh tế của thành phố Đà Nẵng, khu vực miền Trung, Tây Nguyên và của cả nước. Bài viết đã trình bày những vấn đề chính cần tập trung trong chính sách thu hút đầu tư vào khu công nghệ cao ở Đà Nẵng. Thực tiễn thu hút đầu tư vào khu công nghệ cao Đà Nẵng trong giai đoạn 2010 - 2022 đã ghi nhận những kết quả quan trọng, tuy nhiên, vẫn còn một số hạn chế, tồn tại trong quá trình thực hiện. Bài viết cũng đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả chính sách thu hút đầu tư vào khu công nghệ cao ở thành phố Đà Nẵng trong thời gian tới.
- Ấn phẩmChính sách thuế hỗ trợ, phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa - một số kinh nghiệm quốc tế(2019) Nguyễn Thị NgátỞ nhiều quốc gia, DNNVV đều chiếm tỷ lệ cao trong tổng số doanh nghiệp(97%-99%) và được xác định là ''động lực tăng trưởng'', là ''xương sống'' của nền kinh tế. Nhiều năm qua, nhà nước ta cũng có nhiều chính sách cởi mở, tạo động lực cho các DNNVV phát triển. Trong khuôn khổ nghiên cứu này sẽ tập trung vào các nội dung liên quan đến: (i)Thuế suất thuế TNDN đối với DNNVV,(ii) Phương pháp tính thuế theo tỷ lệ cho doanh nghiệp áp dung chế độ kế toán siêu nhỏ của các quốc gia trên thế giới. để từ đó giúp các nhà hoạch định chính sách của Việt Nam có thể áp dụng và sửa đổi chính sách sao cho phù hợp với từng loại hình doanh nghiệp và từng thời điểm khác nhau
- Ấn phẩmChính sách tiền tệ hỗ trợ giải quyết việc làm cho người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài(2023) Nguyễn Thanh Thảo TSTrong bài viết này, tác giả phân tích thực trạng ngành Ngân hàng sử dụng chính sách tiền tệ hỗ trợ giải quyết việc làm cho người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài ở các khía cạnh: ban hành các văn bản pháp lý về tín dụng, chính sách cho vay ký quỹ từ Ngân hàng Chính sách xã hội, chính sách quản lý ngoại hối đối với kiều hối do lao động làm việc ở nước ngoài chuyển về Việt Nam; đánh giá rút ra được những thành công và hạn chế. Trên cơ sở đó, tác giả đưa ra 6 giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng chính sách tiền tệ hỗ trợ giải quyết việc làm cho người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài.
- Ấn phẩmChính sách ví điện tử tại một số quốc gia đông nam á và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam(2023) Công Vũ Hà Mi ThS; Nhữ Thuỳ Liên ThSViệc sử dụng các giải pháp thanh toán kỹ thuật số như ví điện tử ở Đông Nam Á đã bùng nổ trong vài năm qua. Tại Đông Nam Á phải kể đến một số quốc gia có tốc độ phát triển thanh toán qua ví điện tử cao như: Indonesia, Thái Lan, Singapore. Chính phủ các quốc gia này đã nỗ lực rất nhiều trong việc đưa ra các chính sách nhằm thúc đẩy sử dụng ví điện tử tại quốc gia mình. Bài viết nhằm nghiên cứu các chính sách mà một số các quốc gia ở khu vực Đông Nam Á đã thực hiện nhằm giúp cho thanh toán bằng ví điện tử phát triển từ đó bài viết rút ra một số bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam nhằm hoàn thiện chính sách hỗ trợ thúc đẩy sử dụng ví điện tử tại Việt Nam hiện nay.
- Ấn phẩmChuyển đổi kinh tế số - thách thức và giải pháp đối với Việt Nam(2022) Đỗ Thị Lan Anh ThSKinh tế số - Một khái niệm không mới đối với nhiều nền kinh tế của thế giới nhưng mới chỉ xuất hiện tại Việt Nam trong một vài năm trở lại đây. Sự bùng nổ củangành công nghiệp 4.0 mang ý nghĩa đặc biệt quan trong trong cơ cấu kinh tế mỗi quốc gia và Việt Nam không nằm ngoài xu thế đó. Nhận thức được tầm quan trọng đó, nhiều biện pháp của Chính phủ đã được ban hành, thực hiện nhằm chuyển đổi sang kinh tế số. Bài viết đánh giá tổng quan về sự phát triển kinh tế số tại thị trường Việt Nam trong thời gian vừa qua, từ đó phân tích những thách thức đặt ra và đề xuất kiến nghị những giải pháp nhằm tìm ra cơ hội hội nhập và thúc đấy mạnh mẽ hoạt động này tại th ị trường Việt Nam.
- Ấn phẩmChuyển đổi kinh tế tuần hoàn tại Việt Nam: Thuận lợi và một số kiến nghị(Học viện Tài chính, 2024) La Văn Thủy; Nguyễn Thị Thu Hiền TS; Nguyễn Thị Ngọc QuếBài viết này sẽ làm rõ thuận lợi và khó khăn đối với chuyển đổi sang kinh tế tuần hoàn tại Việt Nam. Kết quả nghiên cứu cho thấy thuận lợi đễn từ chính sách bảo vệ môi trường, đường lối chủ trương của Đảng đã được triển khai đồng bộ trong những năm qua, cách mạng công nghệ 4.0 và việc tham gia hội nhập kinh tế tài chính sâu rộng. Tuy nhiên, mô hình kinh tế tuần hoàn tại Việt Nam cũng phải đối mặt với không ít khó khăn như cơ chế, chính sách, nguồn lực cho việc thực hiện chuyển đổi. Từ đó, khuyến nghị một số nhóm giải pháp liên quan nhằm góp phần giải quyết các khó khăn trong quá trình phát triển kinh tế tuần hoàn và mở ra nhiều hướng nghiên cứu mới
- Ấn phẩmChuyển đổi số trong lĩnh vực thương mại hướng tới phát triển bền vững(Học viện Tài chính, 2024) Đặng Thị Thu Giang TSTrên phương diện lý thuyết, đã có những nghiên cứu về phát triển thương mại theo hướng bền vững nói chung và cho các khu vực nói riêng nhưng chưa có nghiên cứu xây dựng một khung lý thuyết hoàn chỉnh, đặc biệt xem xét sự tác động của chuyển đổi số gây ra sự thiếu bền vững… Việc nghiên cứu chuyên sâu về phát triển thương mại theo hướng bền vững gắn với chuyển đổi số thực tế là rất cần thiết, góp phần phát triển lý luận và giải quyết các tình huống quản lý thực tế.
- Ấn phẩmChuyển đổi số trong quản lý tài chính để phát triển kinh tế số ở tỉnh Bắc Giang(2022) Nguyễn Thị Loan ThSNhiệm kỳ 2015-2020, Bắc Giang đã có bước tăng trưởng kinh tế (GRDP) bình quân đạt 14%/năm, nằm trong nhóm các địa phương tăng trưởng cao nhất cả nước, quy mô nền kinh tế được mở rộng (tăng gấp 2 lần so với năm 2015, đứng thứ 16/63 tỉnh, thành phố). GRDP bình quân đầu người năm 2020 đạt 3.000 USD, bằng bình quân chung cả nước, tăng 1.470 USD so với năm 2015. Tuy nhiên, sự bùng nổ của cách mạng công nghiệp lần thứ tư (CMCN 4.0) với đột phá của các công nghệ số dẫn đến sự thông minh hoá của tất cả các lĩnh vực trong xã hội, trong đó đặc biệt là ngành tài chính để tiến tới một nền kinh tế số. Chuyển đổi số chính là cách đi trong chặng đường phát triển thời kỳ cách mạng công nghiệp 4.0 đối với từng lĩnh vực cụ thể. Vì vậy để phát triển kinh tế số tại tỉnh, cần phải chuyển đổi số trong quản lý tài chính để thay đổi cách thức quản lý truyền thống theo hướng mới, ứng dụng công nghệ thông tin vào quản lý… . Qua bài viết tác giả sẽ đánh giá một cách khách quan tình hình phát triển kinh tế của tỉnh Bắc Giang thời gian qua và đưa ra một số giải pháp để chuyển đổi số trong quản lý tài chính để giúp đẩy mạnh phát triển kinh tế của tỉnh theo đúng xu hướng nền kinh tế số.
- Ấn phẩmChuyển đổi từ mô hình kinh doanh truyền thống sang mô hình doanh nghiệp số - xu hướng tất yếu trong thời kỳ cách mạng công nghiệp 4.0(2023) ThS Nguyễn Thị Thanh Huyền; Trần Lê Mạnh HùngBài viết tập trung vào nghiên cứu mối quan hệ giữa đầu tư công nghệ số trong hoạt động kinh doanh của các ngân hàng thương mại (NHTM) và hiệu quả kinh doanh của các ngân hàng thương mại trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đã và đang diễn ra mạnh mẽ. Với dữ liệu thu thập từ 28 ngân hàng thương mại cổ phần niêm yết. Dựa trên kết quả nghiên cứu định lượng, tác giả đã chỉ ra quan hệ giữa việc đầu tư công nghệ số với hiệu quả hoạt động của ngân hàng thương mại là quan hệ đồng biến. Do vậy, trước sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng 4.0 và sự cạnh tranh giữa các ngân hàng thương mại thì việc các ngân hàng thương mại chuyển đổi từ mô hình ngân hàng truyền thống sang mô hình ngân hàng số (Digital Banking) là tất yếu. Việc đầu tư và ứng dụng công nghệ vào trong hoạt động của các ngân hàng thương mại là rất cần thiết trong bối cảnh hiện nay
- Ấn phẩmCơ cấu lại kinh tế du lịch ở Việt Nam(2022) Lê Hữu Phương ThS; Vũ Đình Thuận ThSXác định vị trí, vai tròvà tầm quan trọng của du lịch đối với sựphát triển mọi mặt của kinh tế- xãhội (KT-XH) ở nước ta, ngày 05 tháng 12 năm 2018, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1685/ QĐ-TTg phê duyệt đề án “Cơ cấu lại ngành du lịch Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển thành ngành kinh tế mũi nhọn” với những nội dung đặc biệt quan trọng. Trong đó, đề án đã đưa ra và xây dựng kế hoạch nhằm cụ thể hóa các nội dung quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ chủ yếu; đồng thời xác định rõ trách nhiệm của bộ, ban ngành và các địa phương trong việc thực hiện. Bước đầu đã thu được nhiều thành công với những kết quả khởi sắc, nổi bật. Tuy nhiên, trước những diễn biến phức tạp thời gian qua của đại dịch Covid-19 đã ảnh hưởng lớn đến kinh tế du lịch (KTDL), đòi hỏi các chủ thể trong tỉnh phải tiến hành thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp nhằm cơ cấu lại ngành du lịch hiệu quả và thành công hơn. Bài viết đề cập những vấn đề mang tính lý luận, đồng thời đánh giá thực trạng về cơ cấu lại KTDL ở Việt Nam, từ đó tiếp tục đề xuất khuyến nghị những giải pháp quan trọng nhằm hướng đến mục tiêu phát triển du lịch nước ta trở thành ngành kinh tế mũi nhọn trong thời gian tới.