Tạp chí Học viện Tài chính xuất bản
Duyệt Tạp chí Học viện Tài chính xuất bản theo Topic "Ngành Kinh tế"
- Ấn phẩmẢnh hưởng của động cơ, giá trị cảm nhận đến ý định quay trở lại của khách du lịch tại điểm đến du lịch sáng tạo(Học viện Tài chính, 2024) Trần Thị Tuyết TS; Trần Hùng Đức ThSMục tiêu bài nghiên cứu này nhằm tìm ra các nhân tố ảnh hưởng đến ý định quay trở lại điểm đến du lịch sáng tạo (DLST) thông qua lý thuyết hành vi có kế hoạch. Bài nghiên cứu thu thập 310 mẫu phiếu từ khách du lịch tham quan điểm đến DLST và sử dụng SPSS 22 và AMOS 20 để phân tích dữ liệu. Kết quả cho thấy, thái độ, kiểm soát hành vi nhận thức có tác động tích cực đến ý định quay trở lại điểm đến DLST, và thái độ đóng vai trò trung gian giữa động cơ, giá trị cảm nhận và ý định quay trở lại điểm đến DLST. Từ kết quả này, một số gợi ý/giải pháp được đưa ra nhằm giúp điểm đến DLST thu hút nhiều khách du lịch quay trở lại tham quan.
- Ấn phẩmChuyển đổi số trong lĩnh vực thương mại hướng tới phát triển bền vững(Học viện Tài chính, 2024) Đặng Thị Thu Giang TSTrên phương diện lý thuyết, đã có những nghiên cứu về phát triển thương mại theo hướng bền vững nói chung và cho các khu vực nói riêng nhưng chưa có nghiên cứu xây dựng một khung lý thuyết hoàn chỉnh, đặc biệt xem xét sự tác động của chuyển đổi số gây ra sự thiếu bền vững… Việc nghiên cứu chuyên sâu về phát triển thương mại theo hướng bền vững gắn với chuyển đổi số thực tế là rất cần thiết, góp phần phát triển lý luận và giải quyết các tình huống quản lý thực tế.
- Ấn phẩmGià hóa dân số và chuyển dịch lao động ở Việt Nam: vai trò của vốn nhân lực và ứng dụng công nghệ thông tin(Học viện Tài chính, 2024) Ngô Quỳnh An TS; Trần Huy Phương TS; Phạm Hồng QuânLà một trong những quốc gia có già hóa dân số nhanh trên thế giới, Việt Nam cần giải pháp giảm nhẹ tác động của quá trình này khiến việc chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng hiện đại hóa, thúc đẩy tăng năng suất trở nên chậm và kém hiệu quả hơn. Già hóa dân số khiến mô hình chuyển dịch cơ cấu ngành truyền thống được thúc đẩy bởi thâm dụng lao động và vốn giá rẻ, áp dụng công nghệ chi phí thấp, và tăng cường xuất khẩu trở nên kém bền vững. Ba mô hình OLS đã được xây dựng mô tả sự chuyển dịch lao động theo ngành dựa trên dữ liệu cấp tỉnh năm 2009, 2014, và 2019 để kiểm định, (1) già hóa dân số làm trầm trọng thêm tình trạng thiếu lao động, do đó thu hẹp phạm vi chuyển dịch cơ cấu lao động; (2) thúc đẩy ứng dụng CNTT và vốn con người giúp giảm nhẹ tác động của già hóa đến chuyển dịch cơ cấu lao động.
- Ấn phẩmHuy động nguồn lực tài chính nhằm mục tiêu giảm nghèo tại tỉnh Hà Giang(Học viện Tài chính, 2024) Nguyễn Trọng Tuấn TSHà Giang là tỉnh có tỷ hệ hộ nghèo cao so với mặt bằng chung cả nước. Huy động nguồn lực tài chính là một trong các giải pháp để góp phần giảm nghèo tại Hà Giang trong thời gian qua. Nhà nước, doanh nghiệp và người dân cần tiếp tục thực hiện nhiều biện pháp để huy động nguồn tài chính thực hiện mục tiêu giảm nghèo bền vững trên địa bản tỉnh Hà Giang trong thời gian tới.
- Ấn phẩmKhung năng lực số: chìa khóa phát triển nguồn nhân lực số cho Việt Nam(Học viện Tài chính, 2024) Đàm Thanh Tú TS; Đặng Xuân Thọ TSNăng lực số không chỉ giúp nâng cao hiệu suất công việc mà còn góp phần tăng cường khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trong môi trường kinh doanh toàn cầu. Hơn nữa, việc xây dựng một khung để phản ánh năng lực số toàn diện sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc đào tạo và phát triển kỹ năng số, giúp người lao động Việt Nam tiếp cận với các công nghệ mới và ứng dụng chúng vào thực tiễn công việc một cách hiệu quả. Bài viết này sẽ phân tích những số liệu về năng lực số của lực lượng lao động tại Việt Nam giai đoạn 2018-2023. Qua đó, chúng tôi sẽ đề xuất khung năng lực số như một chìa khóa phát triển nguồn nhân lực số cho Việt Nam. Đồng thời, chúng tôi cũng đề xuất một số khuyến nghị nhằm tối ưu hóa việc triển khai khung năng lực số trong thực tiễn ở Việt Nam.
- Ấn phẩmKinh tế chia sẻ của các quốc gia trên thế giới và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam(Học viện Tài chính, 2024) Nguyễn Thị Thu Hà TSMô hình kinh tế chia sẻ là sự thay đổi sâu sắc trong cách thức trao đổi hàng hóa và dịch vụ. Nền tảng công nghệ giúp kết nối người tiêu dùng với nhà cung cấp hàng hóa và dịch vụ, đồng thời thúc đẩy việc sử dụng tài sản tốt hơn và tăng mức tận dụng nguồn lực kinh tế. Mô hình kinh tế mới chắc chắn đe dọa lợi ích và sự tồn tại của doanh nghiệp trong mô hình kinh tế truyền thống. Điều này đòi hỏi nhà lập pháp, quản lý nhà nước phải cùng đồng hành với doanh nghiệp nền tảng, bên sở hữu nguồn lực chia sẻ và bên sử dụng nguồn lực để hạn chế các tác động không mong muốn, đồng thời phát huy lợi ích của mô hình kinh tế chia sẻ đóng góp vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp 4.0. Bài viết đưa ra mô hình kinh tế chia sẻ ở một số quốc gia và rút ra bài học cho Việt Nam.
- Ấn phẩmKinh tế, tài chính vĩ mô một số giải pháp nhằm phát triển kinh tế xanh ở Việt Nam hiện nay(Học viện Tài chính, 2024) Nguyễn Hữu Tịnh TSKinh tế xanh là nền kinh tế mà tăng trưởng kinh tế gắn với trách nghiệm bảo vệ môi trường, đồng thời hỗ trợ quá trình phát triển xã hội. Bài viết phân tích, đánh giá thực trạng phát triển kinh tế xanh ở Việt Nam, trong đó tập trung vào các nhóm ngành tiêu biểu, như: công nghiệp, năng lượng tái tạo, sản xuất và tiêu dùng, xây dựng và giao thông. Từ đó, tác giả đề xuất một số giải pháp nhằm khắc phục những tồn tại, hạn chế trong công tác triển khai, đảm bảo mục tiêu phát triển kinh tế xanh gắn với phát triển bền vững một cách toàn diện, vừa đạt mục tiêu tăng trưởng kinh tế vừa bảo đảm an sinh xã hội, bảo vệ môi trường về hệ sinh thái trong giai đoạn 2021-2025.
- Ấn phẩmNghiên cứu tác động của khởi nghiệp đến phát triển kinh tế Việt Nam(Học viện Tài chính, 2024) Hà Văn Sự PGS.TS; Lê Nguyễn Diệu Anh TSBài viết nghiên cứu tác động của khởi nghiệp đến tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam giai đoạn 2012 - 2023 bằng phương pháp nghiên cứu định lượng. Nguồn dữ liệu được thu thập từ cơ sở dữ liệu của Tổng cục Thống kê, Ngân hàng thế giới… Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng, khởi nghiệp có tác động tích cực đến phát triển kinh tế được thể hiện qua trình độ nguồn nhân lực. Từ kết quả nghiên cứu, bài viết đưa ra một số khuyến nghị gợi mở hàm ý chính sách nhằm phát triển khởi nghiệp phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế Việt Nam, nâng cao năng lực cạnh tranh doanh nghiệp.
- Ấn phẩmPhân tích các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định phát triển kinh tế hộ của phụ nữ trước bối cảnh chuyển đổi số: trường hợp nghiên cứu tại huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên(Học viện Tài chính, 2024) Đào Thị Hương TS; Nguyễn Thị Hằng TSBối cảnh chuyển đổi số đã làm thay đổi vị thế, vai trò của phụ nữ trong phát triển kinh tế hộ gia đình, đặc biệt trong quá trình sản xuất, chế biến, tiêu thụ sản phẩm, dịch vụ gắn với lợi thế đặc trưng của địa phương. Tuy nhiên, phụ nữ cũng đối diện với nhiều thách thức về kiến thức làm kinh tế, tiếp cận công nghệ và kỹ năng quản lý. Mục đích của nghiên cứu là xác định các yếu tố tác động đến quyết định phát triển kinh tế hộ của phụ nữ tại địa phương, từ đó đưa ra khuyến nghị nhằm tăng cường vai trò của phụ nữ trong quá trình phát triển kinh tế số. Nghiên cứu được thực hiện thông qua phương pháp khảo sát định lượng, thu thập dữ liệu từ 361 hộ gia đình tại huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên. Kết quả nghiên cứu cho thấy các yếu tố như học vấn, số thành viên trong gia đình và tham gia các chương trình tập huấn có ảnh hưởng đáng kể đến quyết định phát triển kinh tế hộ của phụ nữ. Từ đó, đưa ra các giải pháp và khuyến nghị nhằm nâng cao vai trò của phụ nữ trong việc đóng góp phát triển nền kinh tế của địa phương, quốc gia trước bối cảnh chuyển đổi số hiện nay.
- Ấn phẩmRủi ro thanh toán của các doanh nghiệp xây dựng niêm yết ở Việt Nam(Học viện Tài chính, 2024) Phạm Thị Vân Anh TS; Nguyễn Thị Bảo Hiền TSBài báo tập trung vào rủi ro thanh toán của các doanh nghiệp xây dựng niêm yết tại Việt Nam, trong bối cảnh kinh tế quốc gia đang đối mặt với nhiều thách thức. Rủi ro thanh toán, tức là khả năng doanh nghiệp không thể đáp ứng các nghĩa vụ tài chính đến hạn, đang trở thành một vấn đề nghiêm trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến sự tồn tại và phát triển của các doanh nghiệp. Bài báo đi vào phân tích thực trạng rủi ro thanh toán của các doanh nghiệp xây dựng thông qua các chỉ tiêu tài chính như hệ số thanh toán hiện thời, hệ số thanh toán nhanh, và tỷ lệ nợ dài hạn trên vốn chủ sở hữu. Kết quả cho thấy các doanh nghiệp đang gặp khó khăn trong việc duy trì khả năng thanh toán ngắn hạn và dài hạn, với nguy cơ mất thanh khoản và phá sản cao. Bài báo cũng đề xuất các giải pháp kiểm soát rủi ro thanh toán, bao gồm việc quản lý dòng tiền hiệu quả, giảm tỷ lệ nợ, và nâng cao năng lực quản trị tài chính. Đồng thời, bài báo kiến nghị các cơ quan quản lý cần xây dựng các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp tiếp cận vốn và giảm thiểu rủi ro tài chính.
- Ấn phẩmTác động của chất lượng thể chế đến tăng trưởng kinh tế tại các quốc gia Châu Á(Học viện Tài chính, 2024) Tô Thị Hồng Gấm; Nguyễn Vũ DuyBài viết nghiên cứu tác động của chất lượng thể chế đến tăng trưởng kinh tế qua khảo sát 48 quốc gia ở châu Á từ năm 2009 đến năm 2022. Bằng cách sử dụng Phương pháp hồi quy bình phương nhỏ nhất tổng quát khả thi (FGLS) với dữ liệu bảng, chất lượng thể chế được coi là yếu tố then chốt của phát triển kinh tế. Hơn nữa, tăng trưởng kinh tế của các nước châu Á còn bị ảnh hưởng bởi lạm phát (INF), lực lượng lao động (LABO), độ mở thương mại (OPEN) và cơ sở hạ tầng (TELE). Từ đó, nghiên cứu đề xuất một số hàm ý chính sách đối với các nước châu Á nhằm hoàn thiện thể chế góp phần tăng trưởng kinh tế
- Ấn phẩmThực trạng lập kế hoạch tài chính của các tập đoàn kinh tế tại Việt Nam(Học viện Tài chính, 2024) Hoàng Mỹ Linh ThS; Nguyễn Mạnh Hùng ThS; Nguyễn Thu Thương TSCác tập đoàn kinh tế (TĐKT) luôn hướng đến mục tiêu tăng trưởng và phát triển bền vững, đòi hỏi phải lập kế hoạch tài chính để dự báo và đảm bảo nguồn vốn hoạt động trong tương lai. Kế hoạch tài chính bao gồm dự kiến báo cáo kết quả kinh doanh, phân phối lợi nhuận, bảng cân đối kế toán, kế hoạch lưu chuyển tiền tệ, và các biện pháp tổ chức nguồn lực hiệu quả. Tuy nhiên, nhiều TĐKT vẫn chưa chú trọng đúng mức đến hoạt động này, dẫn đến hiệu quả kinh doanh chưa cao. Vì vậy, việc lập kế hoạch tài chính luôn là nhiệm vụ cốt lõi của nhà quản trị tài chính để nâng cao hiệu quả hoạt động của TĐKT. Bài viết sau đây sẽ đi sâu phân tích thực trạng lập kế hoạch tài chính của các tập đoàn kinh tế tại Việt Nam.
- Ấn phẩmThuế tối thiểu toàn cầu và ảnh hưởng đến đầu tư Quốc tế(Học viện Tài chính, 2024) Nguyễn Thị Thanh Hoài PGS.TS; Chu Văn Hùng ThSTrong bối cảnh một số nước, đặc biệt là các nước mới nổi và đang phát triển tăng cường thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), chủ yếu dựa trên các ưu đãi về thuế, phí, thậm chí còn “cạnh tranh xuống đáy”. Chính sách ưu đãi thuế tại các quốc gia đã tạo cơ hội cho các tập đoàn đa quốc gia tận dụng các kẽ hở quản lý để trốn thuế thông qua những hành vi gây xói mòn cơ sở tính thuế hoặc chuyển giá, chuyển lợi nhuận từ nơi có thuế suất cao sang nơi có thuế suất thấp. Điều này có ảnh hưởng không tốt đến thu ngân sách nhà nước của các quốc gia, do vậy cần có sự hợp tác, đồng thuận của các nước trong việc bảo vệ nguồn thu. Các nước tham gia Diễn đàn hợp tác chung (IF) đã thống nhất, đặt ra mức thuế thu nhập doanh nghiệp tối thiểu toàn cầu nhằm ngăn các công ty đa quốc gia chuyển lợi nhuận sang quốc gia có thuế suất thấp để tránh thuế thu nhập. Bài viết giới thiệu tóm tắt nội dung của thuế tối thiểu toàn cầu, đồng thời nêu ảnh hưởng đến thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, đến đầu tư quốc tế.
- Ấn phẩmTích hợp các dịch vụ tài chính - nhìn từ góc độ sản phẩm và những khía cạnh cần cân nhắc(Học viện Tài chính, 2024) Nguyễn Văn Hiệu PGS.TSXu hướng tích hợp các sản phẩm và dịch vụ tài chính thông qua sự phát triển của công nghệ đang trở thành một yếu tố quan trọng trong việc thay đổi cách thức hoạt động của ngành tài chính. Sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin, trí tuệ nhân tạo (AI), dữ liệu lớn (Big Data) và blockchain đã mở ra nhiều cơ hội mới để cải thiện trải nghiệm của người dùng, tăng cường hiệu quả và giảm chi phí trong các dịch vụ tài chính. Đồng thời, những tiến bộ này cũng giúp thúc đẩy sự xuất hiện của các mô hình kinh doanh tài chính mới, chẳng hạn như fintech và ngân hàng số và nhiều mô hình kinh doanh khác.