Tạp chí Học viện Tài chính xuất bản năm 2025

327 ấn phẩm có sẵn

Những tài liệu tải lên gần đây

Đang hiển thị 1 - 6 của tổng số 327 kết quả
Hiển thị
  • Ấn phẩm
    Các yếu tố ảnh hưởng đến ý định và hành vi khởi nghiệp trực tuyến của sinh viên tại một số trường đại học ở Hà Nội
    (Học viện Tài chính, Kỳ 2 tháng 07 (số 292) – 2025) Lê Huyền TrangTS; Phạm Long Châu TS
    Mục tiêu của nghiên cứu là phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến ý định khởi nghiệp trực tuyến và hành vi khởi nghiệp trực tuyến của sinh viên các trường Đại học tại Hà Nội. Mẫu nghiên cứu được thu thập từ 455 sinh viên đang học tại một số trường Đại học ở Hà Nội thông qua bảng câu hỏi trực tuyến. Nhóm tác giả tiến hành phân tích cấu trúc tuyến tính SEM bằng phần mềm SPSS22 kết hợp với Amos24 để kiểm tra mối quan hệ giữa 7 nhân tố được đề xuất trong mô hình nghiên cứu. Kết quả nghiên cứu cho thấy chuẩn chủ quan (SN), kiểm soát hành vi nhận thức (PBC), đặc trưng tính cách (PT), chấp nhận rủi ro (ATR) và đổi mới công nghệ (TI) có tác động trực tiếp đến ý định khởi nghiệp trực tuyến (EEI) của sinh viên các trường Đại học. Tiếp theo, ý định khởi nghiệp trực tuyến (EEI) có tác động trực tiếp đến Hành vi khởi nghiệp trực tuyến (EB). Từ kết quả nghiên cứu, nhóm tác giả đề xuất một số hàm ý quản trị để thúc hành vi khởi nghiệp trực tuyến của sinh viên các trường Đại học.
  • Ấn phẩm
    Ảnh hưởng của hiểu biết tài chính đến mức độ trao quyền kinh tế: Nghiên cứu trường hợp phụ nữ Khmer nông thôn Trà Vinh, Việt Nam
    (Học viện Tài chính, Kỳ 2 tháng 07 (số 292) – 2025) Nguyễn Thị Lương TS; Thạch Thị Oanh Thi; Nguyễn Hồ Anh Khoa TS.
    Nghiên cứu này xem xét ảnh hưởng của hiểu biết tài chính (Financial literacy) đến mức độ trao quyền kinh tế (Women’s economic empowerment) của phụ nữ dân tộc Khmer nông thôn Trà Vinh. Nghiên cứu sử dụng số liệu sơ cấp thông qua điều tra 150 phụ nữ Khmer nông thôn Trà Vinh trong năm 2025. Kết quả hồi quy tại các tứ phân vị cho thấy rằng hiểu biết tài chính, trình độ học vấn, tuổi và tình trạng công việc có tác động tích cực và có ý nghĩa thống kê đến mức độ trao quyền kinh tế. Kết quả của nghiên cứu đã cung cấp bằng chứng thực nghiệm về vai trò của hiểu biết tài chính trong việc nâng cao quyền tự chủ kinh tế trong bối cảnh phụ nữ Khmer ở nông thôn.
  • Ấn phẩm
    Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng tới quyết định lựa chọn phần mềm kế toán tại doanh nghiệp nhỏ và vừa của Việt Nam
    (Học viện Tài chính, Kỳ 2 tháng 07 (số 292) – 2025) Nguyễn Vũ Việt PGS.TS; Vũ Quang Hưng ThS
    Phần mềm kế toán (PMKT) là một công cụ thiết yếu hỗ trợ doanh nghiệp trong công tác kế toán và quản trị tài chính. Việc lựa chọn và ứng dụng PMKT tại các doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNN&V) chịu ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố công nghệ, tổ chức và môi trường. Bài viết này nghiên cứu tác động của các nhân tố như chi phí, tính năng, uy tín nhà cung cấp, hỗ trợ kỹ thuật, bảo mật và tuân thủ pháp lý đến quyết định lựa chọn PMKT của DNN&V tại Việt Nam. Trên cơ sở đó, nghiên cứu đề xuất mô hình lý thuyết kết hợp TAM, UTAUT2 và ISS cùng các giải pháp nâng cao hiệu quả ứng dụng phần mềm trong thực tiễn. •
  • Ấn phẩm
    Giải pháp đa dạng hóa nguồn tài chính cho bảo vệ môi trường ở nước ta
    (Học viện Tài chính, Kỳ 2 tháng 07 (số 292) – 2025) Ngô Văn Lượng TS; Nguyễn Thị Thanh Huyền ThS; Nguyễn Việt Năng
    Bảo vệ môi trường là vấn đề mang tính thời sự, cấp bách hiện nay ở hầu hết các quốc gia. Đồng thời, cũng hết sức khó khăn và nhiều thách thức. Với quan điểm đầu tư bảo vệ môi trường là đầu tư cho phát triển bền vững. Tại Hội nghị Trung ương 7, khóa XI đã thông qua Nghị quyết về “chủ động ứng phó với biến đổi khí hầu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường” trong đó xác định nhiệm vụ tăng cường và đa dạng hóa nguồn lực cho bảo vệ môi trường. Bài viết này, khái quát về nguồn tài chính cho BVMT những năm qua và đề xuất giải pháp đa dạng hóa nguồn tài chính cho bảo vệ môi trường ở Việt Nam trong những năm tới.
  • Ấn phẩm
    Linh hoạt tài chính và hiệu quả tài chính - Bối cảnh thị trường vốn Việt Nam giai đoạn 2019-2023
    (Học viện Tài chính, Kỳ 2 tháng 07 (số 292) – 2025) Hoàng Thị Ngọc Nghiêm TS; Hồ Thị Vân Anh TS
    Trong thời gian qua, thực tiễn đã chứng minh linh hoạt tài chính (financial flexibility - FF) là một yếu tố quan trọng đối với hiệu quả tài chính (financial efficiency - FE) của một công ty. Tuy nhiên, rất ít nghiên cứu đã nghiên cứu đầy đủ tác động của tính linh hoạt tài chính đối với hiệu quả tài chính. Để làm rõ mối quan hệ này, nghiên cứu này sử dụng dữ liệu thứ cấp từ các công ty niêm yết trên Sở Giao dịch Chứng khoán TP. Hồ Chí Minh (HOSE) giai đoạn 2019 - 2023 và phương pháp phân tích hồi quy hiệu ứng cố định để đánh giá xem xét sự linh hoạt tài chính có ảnh hưởng lên hiệu quả tài chính; mức độ ảnh hưởng khác nhau có phụ thuộc vào quy mô và lĩnh vực kinh doanh của công ty; hành vi chấp nhận rủi ro của CEO trước những ảnh hưởng của mối quan hệ này. Những phát hiện này làm rõ vai trò của linh hoạt tài chính trong hoạt động tài chính của công ty và cung cấp những ý tưởng quan trọng về chiến lược quản lý tài chính. Nghiên cứu nhấn mạnh rằng việc sử dụng linh hoạt tài chính để nâng cao hiệu quả tài trợ cần được xem xét trong bối cảnh riêng của từng công ty và môi trường kinh doanh.
  • Ấn phẩm
    Quản lý nợ thuế trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn
    (Học viện Tài chính, Kỳ 2 tháng 07 (số 292) – 2025) Nguyễn Thị Thu TrangTS; Hoàng Nghiệp Quỳnh ThS
    Thuế là một trong những công cụ quan trọng của Nhà nước để quản lý vĩ mô nền kinh tế. Tuy nhiên, tình trạng nợ thuế ngày càng gia tăng, diễn biến phức tạp, công tác thu hồi nợ thuế trở nên khó khăn đã ảnh hưởng đến việc cân đối ngân sách và chi tiêu của Chính phủ, đồng thời tác động không tốt đến những NNT có ý thức chấp hành tốt pháp luật thuế. Tuy tình hình nợ thuế trong thời gian qua đã được cải thiện đáng kể nhờ những nỗ lực của Chi cục Thuế khu vực VI nhưng tỷ lệ nợ thuế vẫn ở mức khá cao, đặc biệt là nợ khó thu. Vì vậy, đòi hỏi Chi cục thuế phải tăng cường tìm các biện pháp thu hồi nợ thuế, nâng cao hiệu quả quản lý nợ thuế. Bài viết nhằm đánh giá thực trạng công tác quản lý nợ thuế tại tỉnh Lạng Sơn, từ đó đề xuất các giải pháp nhằm đảm bảo công tác thu hồi nợ thuế được thực hiện đồng bộ, nhất quán, đáp ứng mục tiêu công bằng xã hội giữa các đối tượng nộp thuế trong việc chấp hành nghĩa vụ với ngân sách Nhà nước.